Tháng 2 năm 1820 vua Gia Long băng hà, hoàng tử thứ tư là Nguyễn Phúc Đảm được đưa lên ngai vàng, lấy niên hiệu là Minh Mạng. Vua Minh Mạng là người có nhiều đóng góp đối với công việc mở mang đất nước, đưa nước Đại Nam lên hàng mạnh nhất trong các quốc gia Đông Nam Á lúc bấy giờ.
Chức năng chủ yếu của La thành là bảo vệ lăng, thế nhưng nó uốn lượn mềm mại, giản đơn mà không theo một khuôn dạng hình học nào cả nên mặc dù cao đến 3m vẫn không làm tức mắt. Nhìn trên một bình diện rộng, vòng thành chỉ là một giới hạn qui ước để cho không gian từ xa nhập vào trong tâm lăng không đứt mạch, không gián đoạn, làm cho Lăng dù có khuôn viên riêng vẫn có cảm tưởng như là hoành tráng, xa ngút tầm mắt. Các công trình gồm cung điện, lâu đài, đình tạ được bố trí đăng đối trên một trục dọc theo đường Thần đạo dài 700m, bắt đầu từ Đại Hồng Môn đến Bửu Thành. Xen giữa những công trình kiến trúc là hồ nước ngát hương sen và những quả đồi phủ mượt bóng thông, tạo nên một phong cảnh vừa hữu tình vừa ngoạn mục.
Đại Hồng Môn
Qua Hoằng Trạch môn xuống khỏi mười bảy bậc đá Thanh thì đến ba cái cầu xây song song nối Phụng Thần sơn với Tam Tài sơn. Cầu chính giữa có tên là Trung đạo kiều. Hai bên trái, phải là Tả Phụ và Hữu Bật. Đây vừa là đoạn nối hai nửa hồ Trừng Minh lại với nhau, vừa là chỗ uốn dòng nước chảy từ phía trái khu mộ táng thoát ra cống vòm gần Tả Hồng môn. Cả ba cầu này đều được hạ độ cao xuống mức thấp nhất để cho Minh Lâu dựng trên đồi Tam Tài Sơn càng cao vút hơn. Minh Lâu nghĩa là lầu sáng, nơi nhà vua suy tư vào những đêm hè trăng thanh gió mát, là nơi đi về của linh hồn tiên đế. Tòa nhà này như một dấu chấm vuông kết thúc những công trình kiến trúc hình vuông bắt đầu từ Đại Hồng môn. Bắt đầu từ đây những công trình kiến trúc đều có hình tròn mang ý nghĩa viên thành. Người xưa quan niệm rằng vuông là hữu hạn, tròn là vô biên. Hữu hạn của vuông tượng trưng cho trái đất. Vô biên của tròn tưọng trưng cho bầu trời. Khi đang sống “đấng thiên tử” ở giữa trái đất. Lúc “băng hà” con trời là về trời tức về cõi vô biên. Chính lúc đó đã “bình thành công đức”. Cũng với ý nghĩa đó, hai bên Minh Lâu, về phía sau trên hai ngọn đồi Bình sơn và Thành sơn là hai trụ biểu uy nghi mang ý nghĩa nhà vua đã “bình thành công đức” trước khi về cõi vĩnh hằng.
Ba cây cầu dẫn đến Minh Lâu. Chính giữa là Trung đạo kiều, bên phải là Hữu Bật, bên trái là Tả Phụ
Từ sân sau Minh Lâu nối tiếp với sân đầu cầu Thông Minh Chính Trực lát bằng đá thanh dài 49m, rộng 4m, hai bên có lan can thưa thoáng vắt qua hồ Tân Nguyệt để vào Bửu thành. Hồ bán nguyệt hình trăng non, ôm lấy Bửu Thành, ví như yếu tố “Âm” bao bọc, che chở cho yếu tố “Dương” là Bửu Thành – biểu tượng của mặt trời. Đây là sự thể hiện tài tình biểu tượng âm dương là mặt trăng và mặt trời của người xưa. Mặt trăng (âm) được biểu hiện bằng hồ bán nguyệt là trăng thượng tuần nằm giữa Minh Lâu (đất vuông) và Bửu Thành (trời tròn) làm chức năng chuyển tiếp từ vuông sang tròn, từ thế giới thực về cõi vô biên.
Hai đầu cầu Thông Minh Chính Trực có hai bộ cửa đồng trụ được gọi là Nghi môn. Bửu Thành là yên nghỉ của nhà vua, nằm giữa tâm một quả đồi mang tên Khải Trạch Sơn, có hình tròn chu vi 270m. Đỉnh đồi chính là tâm của Bửu Thành và nằm ngay trên trục thần đạo. Đây là khu vực có nhiều cây cổ thụ phần lớn là thông nên quanh năm phủ đầy bóng mát. Bên ngoài Bửu Thành hình tròn là hồ Tân Nguyệt, tiếp theo là vòng La Thành mềm mại cũng được uốn lượn cùng một chiều. Triền đồi lúp xúp làm một vòng trung gian giữa La thành với rặng núi xanh xa ăn nhập với chân trời đều tạo nên những khoảng không gian hình vành khăn cứ nới rộng dần mà tâm của các vòng tròn đồng tâm này chính là tâm của Bửu Thành: điểm nằm vĩnh cửu của vị “thiên tử”, là tâm của vũ trụ ở cõi vô biên như muốn thể hiện khát vọng ôm choàng trái đất và ước muốn làm bá chủ vũ trụ của vị vua quá cố.
Lăng Minh Mạng với kiến trúc mạng đậm chất Trung Hoa, tả Long hữu Hổ
Theo “Đại Nam Thực Lục” thì linh cửu của hoàng đế Minh Mạng chuyển từ Thuyền rồng đậu bên bờ Sông Hương vào một ngôi nhà lợp cỏ bên phải Bửu thành sau đó được đưa vào toại đạo (đường hầm) qua 3 cửa đá vào vị trí an táng. Chỉ một số đại thần tin cẩn nhất mới biết được thi thể hoàng đế Minh Mạng được đưa vào con đường hầm nào. Ngày nay, cổng vào đồi Khai Trạch luôn được khóa kín vì người ta không rõ vua được chôn chính xác ở chỗ nào, sợ vô ý giẫm lên long thể nhà vua.
Nhìn vào trắc đồ, dọc theo trục thần đạo từ Đại Hồng môn đến điểm sau Bửu Thành, hình thể lăng tựa dáng một người đang nằm nghỉ trong một tư thế vô cùng thanh thản của một con người, đầu gối lên núi Kim Phụng, chân duỗi ra ngã ba sông Hương, sông Tả Trạch, sông Hữu Trạch, hai nửa hồ Trừng Minh như đôi cánh tay buông xuôi tự nhiên. Rừng thông chỗ đậm, chỗ thưa, làm các công trình kiến trúc bên trong thấp thoáng như ẩn mà như hiện dưới các tàn lá xanh tạo nên sự hài hòa, ăn ý giữa con người và thiên nhiên.
Thăm lăng Minh Mạng, du khách ngỡ mình lạc vào không gian của hội họa, thi ca và triết học. Sự uy nghiêm, nét tĩnh tại của kiến trúc và khung cảnh gợi tình của thiên nhiên, hoa cỏ thể hiện tính cách nghiêm khắc, tri thức uyên bác và tâm hồn lãng mạn của nhà vua.